Thứ tư, ngày 26/3/2025

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế số

Thứ Năm 20/03/2025 08:29

Xem với cỡ chữ

1. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế đang thay đổi

Nhà triết học Pháp, Paul Valery có nói hàm ý rằng nếu Nhà nước quá ôm đồm, “chúng ta” sẽ không có nhiều việc để làm, nhưng nếu Nhà nước quá yếu kém, “chúng ta” sẽ không còn tồn tại. Các cuộc tranh luận gần 100 năm qua về vấn đề này cho thấy phần lớn các nhà kinh tế đều nghiêng về quan điểm vai trò lý tưởng nhất của Nhà nước là ở giữa hai thái cực trên [5].

Các nhà kinh tế học cổ điển, khởi đầu là Adam Smith, đã ủng hộ vai trò tối thiểu của khu vực công và cho rằng Nhà nước chỉ nên có vai trò giới hạn trong việc cung cấp các công trình công cộng thiết yếu, duy trì luật pháp, trật tự và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Thế kỷ 20 chứng kiến sự mở rộng dần ở quy mô lớn hơn về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, thể hiện rõ trong tỷ lệ chi tiêu công trên GDP đã tăng lên nhanh chóng.

Hệ tư tưởng Keynes cho rằng nên mở rộng vai trò kinh tế của khu vực công thông qua việc Chính phủ điều chỉnh thu nhập khả dụng của các cá nhân theo chu kỳ để ổn định nền kinh tế. Các chương trình công cộng và trợ cấp thất nghiệp, cùng với việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư công và thuế với tính linh hoạt cao được sử dụng cho mục tiêu trên. Ngoài tác động của hệ tư tưởng đối với các chính sách của Chính phủ, sự phát triển kĩ thuật và công nghệ trong kinh tế, đặc biệt là sau Thế chiến thứ hai đã tạo thêm nền tảng cho sự can thiệp của khu vực công. Ví dụ, khái niệm về hàng hóa công cộng trở nên phổ biến hơn nhờ những nhà kinh tế có sức ảnh hưởng theo trường phái Keynes mới. Theo đó, hàng hóa công cộng sẽ thiếu hụt nguồn cung nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, do khu vực tư nhân không có động lực để sản xuất các hàng hóa công cộng.

Sự thành công ban đầu của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã thúc đẩy nhiều quốc gia hướng tới một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó Chính phủ đóng một vai trò lớn. Phân phối lại thu nhập trở thành mục tiêu chính sách trọng tâm thông qua việc giảm thu nhập của người giàu và tăng thu nhập của người nghèo. Thuế thu nhập với tỷ lệ lũy tiến cao, trợ cấp hàng hóa cơ bản và các khoản thanh toán phúc lợi, tăng chi tiêu công về giáo dục và y tế đã trở thành chính sách phổ biến của nhiều Chính phủ.

Cùng với các thảo luận mang tính hệ tư tưởng về vai trò của Chính phủ tại tất cả các quốc gia, cũng xuất hiện các quan điểm riêng về chủ đề này tại các quốc gia đang phát triển. Khi bàn về vai trò của Nhà nước, nhất là vai trò về kinh tế, chẳng hạn như trong việc sử dụng các công cụ để phân phối nguồn tài nguyên, tái phân bổ lại thu nhập và tác động đến mức độ hoạt động kinh tế, các nhà kinh tế và chính trị học thường đánh giá vai trò cụ thể của Nhà nước trong nền kinh tế bằng việc đo lường tỷ lệ thu thuế hoặc chi tiêu Chính phủ trong tổng sản phẩm quốc nội. Theo tiêu chí này, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế sẽ lớn hơn nhiều (thường là gấp đôi) ở các nước công nghiệp so với các nước đang phát triển. Ví dụ, tỷ lệ này của Thụy Điển gấp 5 lần Trung Quốc. Tuy vậy, nếu quan sát ở góc nhìn khác lại cho thấy một thực tế khác biệt là trong những thập kỉ gần đây, khu vực công của các nước đang phát triển, thông qua các chính sách điều tiết, đã đóng một vai trò chủ đạo hơn so với Chính phủ các nước công nghiệp trong việc phân bổ đầu tư, tín dụng, ngoại hối và nguồn lực kinh tế nói chung [4].

Tuy nhiên, quan điểm cho rằng Chính phủ có thể là giải pháp cho hầu hết các vấn đề đã không còn được chấp nhận sâu rộng như nhiều thập kỷ trước đây. Những dữ liệu thực tế về sự can thiệp của Nhà nước trong vài thập kỷ đã được so sánh với kỳ vọng ban đầu và kết quả của việc so sánh này đã cho thấy sự can thiệp sâu rộng của Nhà nước đã không cải thiện được vấn đề phân bổ nguồn lực và không đảm bảo được môi trường kinh tế ổn định hơn, và đấy cũng là lúc sự trở lại của yếu tố thị trường mạnh hơn trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Trong những năm gần đây, mọi người bắt đầu nhận ra rằng sự gia tăng can thiệp vào thị trường của Nhà nước đã khiến các hoạt động cốt lõi của Nhà nước bị bỏ rơi. Đã có lúc, người ta nhận thấy các mục tiêu công bằng được dùng để biện minh cho sự kém hiệu quả trong việc sử dụng các tài nguyên công cộng, sự suy giảm về chất lượng các dịch vụ cơ bản do Nhà nước cung cấp và người ta cũng nhận thấy vai trò của Nhà nước đã thay đổi trong nhiều trường hợp từ việc hỗ trợ, mở rộng thị trường thành cạnh tranh, từ đó thay thế thị trường, Do vậy, xu hướng trong vài thập niên qua đã chứng kiến sự trở lại vai trò của thị trường được quan tâm và đánh giá cao hơn đối với các nhà hoạch định chính sách. Kết quả là, sự can thiệp của Nhà nước đã có xu hướng giảm dần và vai trò của thị trường trong việc phân bổ đã được mở rộng hơn. Vai trò của Chính phủ đang thay đổi từ cạnh tranh với thị trường sang vai trò khuyến khích thị trường và cải thiện hoạt động của thị trường. Ngày càng có nhiều nước thúc đẩy quá trình tư nhân hóa/cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, giảm bớt hoặc loại bỏ các biện pháp hạn chế thương mại, góp phần giao thương phản ứng nhanh nhạy hơn với các thay đổi về giá, giảm thiểu hoặc loại bỏ những hạn chế trong việc phân bổ tín dụng và kiểm soát lãi suất, khôi phục lại chức năng phân bổ của thị trường tín dụng, hạn chế kiểm soát giá và giảm thiểu nhiều ràng buộc kinh tế,...

Khoảng hơn hai chục năm trở lại đây, nhiều nhà kinh tế và chính trị học đang thảo luận về vai trò của Nhà nước trong một thế giới khi công nghệ đang có những bước tiến lớn và nền kinh tế thế giới ngày càng hội nhập. Trong thế giới toàn cầu hóa và các động lực của cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển của các công nghệ số trong thời gian qua đã trao cho Nhà nước vai trò lớn hơn, đòi hỏi Nhà nước sẽ phải đóng vai trò chủ động điều tiết và nhanh nhạy hơn. Trong kỷ nguyên công nghệ số, việc giám sát chặt chẽ nhưng hợp lý đối với các hoạt động kinh tế và quy tắc tham gia thị trường trong bối cảnh chuyển đổi số rõ ràng là rất cần thiết, đòi hỏi Chính phủ các nước phải vượt qua thách thức mới. Trong bối cảnh mới này, đã có những quan điểm mới về vai trò của Nhà nước trong việc phân định chức năng trong mối quan hệ với thị trường là sẽ nghiêng về tăng cường chức năng của thị trường chứ không phải thay thế thị trường, hay Nhà nước cần tập trung nhiều hơn vào các hoạt động cốt lõi theo nhiệm vụ của mình và đón đầu, kiến tạo phương thức sản xuất mới - phương thức sản sản xuất số.

2. Những đặc trưng của nền kinh tế số tác động đến vai trò của nhà nước

Kỷ nguyên chuyển đổi số, kinh tế số đã và đang dẫn đến những thay đổi mang tính cách mạng về phương thức sản xuất và cách sống, là quá trình xác lập một “phương thức sản xuất số” hiện đại, trong đó công nghệ số và dữ liệu trở thành những nhân tố, là tư liệu sản xuất “số” ngày càng quan trọng, từ đó “quan hệ sản xuất số” cũng có những biến đổi sâu sắc về hình thức sở hữu và phân phối “tư liệu sản xuất số”. Sự biến đổi trong quan hệ sản xuất, do đó sẽ tác động đến kiến trúc thượng tầng, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước về kinh tế, làm thay đổi căn bản mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, cách thức tương tác giữa Nhà nước và thị trường, với người dân và giữa các tầng lớp xã hội.

2.1. Những cơ hội tạo ra từ kinh tế số

Trước hết, có thể thấy kinh tế số mang lại phúc lợi lớn, nhưng giá trị thị trường của nó lại chưa được xác định. Kinh tế số tạo ra phúc lợi mà kinh tế học truyền thống đã không tính đến, như các dịch vụ thông tin và dữ liệu miễn phí Wikipedia, dịch vụ email như Gmail, và bản đồ kỹ thuật số như Google Maps. Các sản phẩm này đều có giá trị kinh tế khổng lồ, và các dịch vụ mang lại phúc lợi rất lớn, tuy nhiên lại không được tính trong hệ thống tài khoản quốc gia vì GDP chỉ đo lường giá trị tiền tệ của tất cả các hàng hóa cuối cùng theo một mức giá nhất định. Xét theo quan điểm kinh tế học truyền thống, có một nghịch lý là kinh tế số đang tạo ra rất nhiều dịch vụ có giá trị cao, nhưng chi phí chưa được xác định đúng, và đặc biệt là nhiều hoạt động của nền kinh tế này thể hiện lợi ích kinh tế theo quy mô với chi phí cận biên bằng không [7].

Thứ hai, dữ liệu đang ngày càng trở thành nhân tố sản xuất, tư liệu sản xuất quan trọng. Khoảng 20 năm cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến thời kỳ bùng nổ các nghiên cứu về mô hình tăng trưởng, trong đó các nhân tố kinh tế bao gồm: vốn vật chất, lao động, vốn con người và tiến bộ kỹ thuật được coi là những nguồn lực cơ bản. Các nhà kinh tế sau đó cũng đã cố gắng lượng hóa và đưa vào mô hình các nhân tố phi kinh tế như yếu tố văn hóa - xã hội, thể chế và sự tham gia của cộng đồng,... Đã có những nỗ lực xây dựng một mô hình đầu tư tân cổ điển tổng quát với vốn vật chất, lao động và hai loại vốn vô hình (kiến thức và vốn thương hiệu) làm đầu vào. Các nghiên cứu thực nghiệm này cũng đã cho thấy tầm quan trọng của vốn vật chất đối với giá trị công ty đã giảm dần trong những thập kỷ gần đây, trong khi vốn tri thức đã tăng lên tương ứng, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp công nghệ cao. Mức độ quan trọng ngày càng tăng này của các yếu tố vô hình cho thấy cần phải đo lường và đánh giá một cách phù hợp hơn tác động của tài sản vô hình tới tăng trưởng. Tương tự như vậy, trong nền kinh tế số, dữ liệu và khả năng phân tích dữ liệu đang ngày càng trở thành nhân tố sản xuất quan trọng, tuy nhiên rất khó để đo lường chính xác giá trị của tài sản vô hình này ngoài việc xác định sự tồn tại của chúng. Do đó, một thách thức đặt ra đối với các mô hình sản xuất truyền thống hiện nay là làm thế nào để kết hợp và lồng ghép được yếu tố “dữ liệu” với các yếu tố truyền thống, đặc biệt là vốn nhân lực, vốn con người, để đánh giá được đầy đủ và chính xác hơn các nguồn tăng trưởng và đóng góp của từng nhân tố.

Thứ ba, kinh tế số góp phần giảm chi phí giao dịch trên thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính. Một tính năng đặc biệt của nền kinh tế số là khi đã có những thay đổi đáng kể trong thu thập và xử lý thông tin thì thông tin luôn có sẵn ở khắp mọi nơi, do vậy giả thuyết về thông tin bất đối xứng của kinh tế học truyền thống không còn phù hợp trong kỷ nguyên dữ liệu lớn. Trên thị trường tài chính, chi phí thu thập và tìm kiếm thông tin đã giảm đáng kể và việc thu thập dữ liệu tín dụng đã chuyển từ truy xuất thông tin thụ động sang thu thập thông tin chủ động. Những đột phá này đã dẫn đến sự ra đời của công nghệ tài chính (Fintech) và được xác định là một đột phá quan trọng trong việc nâng cao tính bao trùm của thị trường, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho những bộ phận dân cư trước đây chưa có được. Như vậy, những khoảng trống và bất đối xứng thông tin vốn tồn tại ở hầu hết các mô hình kinh tế truyền thống đang được loại bỏ một phần và đã xuất hiện các thị trường mới chưa từng tồn tại trước đây, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện.

Thứ tư, các siêu nền tảng số tỏ rõ tiềm năng và đã phát huy hiệu quả hơn trong việc khớp nối cung-cầu. Các nền tảng số lớn ngày nay đã nắm được đặc điểm cơ bản của thị trường trên nền tảng web, từ đó tạo ra cách để người mua và người bán khớp được cung-cầu. Nhờ các nền tảng lớn đang phát triển rất mạnh mẽ, khoảng cách thông tin giữa người mua và người bán đã được thu hẹp. Nhiều “ngân hàng” bây giờ chỉ có một vài nhân viên nhưng lại đang quản lý hàng triệu khoản vay nhỏ, là những khoản vay mà các ngân hàng truyền thống gặp nhiều hạn chế trong tiếp cận và dữ liệu trên thực tế đã trở thành tài sản thế chấp mới.

Ngoài ra, dữ liệu cũng góp phần gia tăng ngoại ứng thông tin tích cực và cải thiện phúc lợi xã hội. Đặc tính “hàng hóa công cộng” này của dữ liệu trong nền kinh tế số đã tạo ra hiệu ứng bên ngoài tích cực, vì thông tin của một cá nhân có thể được sử dụng hữu ích cho người khác và cải thiện phúc lợi xã hội cho tất cả mọi người. Nền kinh tế trong đại dịch COVID-19 là một ví dụ hoàn hảo của ngoại ứng thông tin tích cực, khi vị trí được xác định nhờ kỹ thuật số có thể được sử dụng để ước tính xác suất lây nhiễm và một số nước đã sử dụng dữ liệu để chỉ ra mức độ rủi ro lây nhiễm của một cá nhân, nhờ đó có được một phương án di chuyển an toàn hơn và làm giảm tác động kinh tế của các chính sách giãn cách. Trong chăm sóc sức khỏe, trí tuệ nhân tạo dưới dạng nhận dạng hình ảnh đang được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán cho các nhóm dân cư vùng sâu, vùng xa. Dữ liệu ngày càng có vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc cải thiện phúc lợi xã hội thông qua quá trình ra quyết định và thực thi chính sách vì nhờ phân tích dữ liệu lớn, Chính phủ có thể điều chỉnh hoặc thậm chí dừng thực thi các chính sách không hiệu quả, qua đó cải thiện hiệu quả hoạch định chính sách.

2.2. Các thách thức của kinh tế số

Vai trò ngày càng tăng của dữ liệu cũng tạo ra những thách thức đối với thị trường và phúc lợi xã hội do nền kinh tế số mang lại, có thể bao gồm, nhưng không giới hạn các yếu tố sau:

Trước hết, các siêu nền tảng số có thể là nguồn gốc của sự lạm dụng sức mạnh thị trường. Điểm tựa của các luận điểm trong kinh tế học truyền thống là một giả thuyết “hoàn hảo”, đó chính là cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên, trong nền kinh tế số, các nền tảng lớn với sức mạnh thị trường vượt trội có thể lạm dụng sức mạnh này và ngăn chặn sự đổi mới công nghệ trong một số trường hợp. Những nền tảng lớn này biện minh là đang cung cấp chi phí thấp, thậm chí miễn phí cho nhiều người và tìm cách ngăn chặn quyền gia nhập thị trường của nhiều công ty đang phát triển công nghệ mới. Việc lạm dụng mang tính độc quyền này có thể tạo ra hoặc làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng trong việc truy cập dữ liệu cá nhân và làm giảm hiệu quả thị trường.

Thứ hai, những quan ngại về tác động gây xáo trộn và bất ổn trên thị trường lao động. Trong nền kinh tế số, đã có những lo lắng và hoài nghi rằng các công nghệ kỹ thuật số như AI và robot hỗ trợ kỹ thuật số sẽ dẫn đến tự động hóa và do đó việc làm sẽ bị thay thế. Rõ ràng, máy tính và AI có thể cạnh tranh vượt trội về hiệu quả và chi phí so với khả năng của con người trong nhiều tác vụ, do đó sẽ dẫn đến một phần lớn các ngành nghề truyền thống, các công việc lặp đi lặp lại có thể được thay thế bằng máy móc. Theo xu hướng số hóa, nhiều công ty phải áp dụng chiến lược táo bạo và tiến hành đổi mới đột phá mới tồn tại trong cuộc đua và cuộc cách mạng số hóa này sẽ đẩy nhanh quá trình "phá hủy sáng tạo" và loại bỏ một số công việc truyền thống. Do vậy, cùng với việc tạo ra một số lượng đáng kể việc làm mới, nền kinh tế số đã và đang tạo ra sự phân bổ lại lực lượng lao động từ các công việc hiện tại sang các vị trí mới. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng đây sẽ là một quá trình chậm chạp vì luôn có một “độ trễ” thời gian để thích ứng với một công việc mới và những kỹ năng mới. Khi đó sự không phù hợp giữa kỹ năng lao động và công nghệ mới chắc chắn sẽ làm phức tạp quá trình điều chỉnh và cản trở việc cải thiện năng suất do các công nghệ áp dụng công nghệ mới mang lại.

Tiếp đến là rủi ro liên quan đến đảm bảo quyền riêng tư của dữ liệu cá nhân. Vi phạm quyền riêng tư dữ liệu và bảo mật dữ liệu là những rủi ro lớn trong nền kinh tế số và luôn có sự đánh đổi, do đó cần có sự cân bằng giữa việc bảo vệ quyền riêng tư và tạo ra thông tin hữu ích công khai. Dữ liệu là hữu ích nhất khi có thể được gộp lại và chia sẻ theo những dòng chảy có trách nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế một số công ty đã tham gia vào các hoạt động thu thập và chia sẻ dữ liệu cá nhân mà không có được sự đồng ý, sự bất đối xứng và lạm dụng này có thể đặt người tiêu dùng vào một vị trí bất lợi. Các tác động tiêu cực này đặc biệt được ghi nhận đối với những người nghèo, trình độ giáo dục thấp và ít thông tin về công nghệ, kết quả là sự đánh đổi giữa lợi ích kinh tế của dữ liệu và lợi ích cá nhân không phải là như nhau với tất cả mọi người.

Sau cùng là vấn đề an ninh quốc gia. Các nhà hoạch định chính sách quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong hợp tác quốc tế về luồng thông tin và dữ liệu. Một mặt, Chính phủ các nước muốn khuyến khích dòng chảy thông tin qua biên giới vì các lợi ích kinh tế, giáo dục, công nghệ,... Mặt khác, lại cần phải kiểm soát luồng thông tin tự do để ngăn chặn thư rác, vi phạm bản quyền, bảo vệ an ninh quốc gia, các cơ sở hạ tầng quan trọng trong nền kinh tế và hệ thống tài chính. Trong thế giới vạn vật (IoT), nơi không chỉ các máy chủ và thiết bị truyền thông được kết nối với Internet, mà là mọi thứ khác đang đặt ra các vấn đề an ninh cực kỳ quan trọng cần được giải quyết mà khu vực tư nhân khó có thể đảm trách.

Tóm lại, sự xuất hiện của kinh tế số đang đưa đến nhiều cơ hội nhưng cũng đồng thời tạo ra cả các thách thức đối với kinh tế học truyền thống. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số, những thay đổi lớn đang diễn ra trong đời sống kinh tế và xã hội với nhiều hàng hóa và dịch vụ số miễn phí được cung cấp cho người tiêu dùng. Mặt khác, trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn đã liên kết người bán và người mua hiệu quả hơn, cải thiện độ chính xác của các dự đoán và giảm chi phí thông tin và độ ma sát trên thị trường. Tuy nhiên, những công nghệ số này cũng đang gây ra các vấn đề về quyền riêng tư và bảo mật dữ liệu, dẫn đến tiềm năng thất bại thị trường lớn hơn và điều này đòi hỏi sự can thiệp của Chính phủ để cân bằng lợi ích của tất cả các bên, phát triển các khuôn khổ thể chế và pháp lý hiệu quả để hạn chế việc lạm dụng quyền lực thị trường.

3. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế số

Như vậy, nền kinh tế số đang mang lại cả cơ hội và thách thức. Từ những lợi ích hiện hữu và các vấn đề rủi ro tiềm ẩn của nền kinh tế số, cần có những nghiên cứu và đánh giá về vai trò mới của Nhà nước trong việc đảm bảo cho nền kinh tế số hoạt động một cách phù hợp, hiệu quả và lành mạnh. Hầu hết các nghiên cứu và tổng kết thực tiễn trong thời gian qua đều cho thấy trong nền kinh tế số, Chính phủ không phải chỉ là xác định vị thế của mình ở đâu giữa hai cực “chuẩn tắc” và “tích cực” như trong nền kinh tế truyền thống, mà cần phải đóng vai trò chủ động hơn trong việc kiến tạo và trong nhiều trường hợp cần dẫn dắt, tiên phong với việc xác định những định hướng hỗ trợ của Chính phủ đối với nền kinh tế số là gì?

Trước hết, về nguyên tắc thị trường là cơ chế phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất. Tuy nhiên, khi cơ chế này tiềm ẩn bị phá vỡ do những đặc trưng riêng có của nền kinh tế số thì thị trường sẽ không hiệu quả nữa và không thể tự giải quyết nếu không có sự can thiệp của Chính phủ. Do vậy về tổng thế, định vị vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế số là sự chủ động và tích cực trong việc hoàn thiện và thiết lập thể chế, chính sách và môi trường pháp lý khi dữ liệu trở thành một tài nguyên mới và đóng vai trò ngày càng quyết định trong quá trình phát triển kinh tế.

Tiếp đến, khi dữ liệu đóng vai trò là tài nguyên của nền kinh tế và trở thành tài sản số thì vai trò tiếp theo của Nhà nước là phải hướng đến tạo lập sự cân bằng giá trị xã hội và giá trị cá nhân của dữ liệu cá nhân, cân bằng lợi ích của việc chia sẻ dữ liệu phù hợp với tình hình cụ thể về mặt chính trị và xã hội của từng nước. Tiếp đến là sự cân bằng giữa đổi mới công nghệ số và an ninh quốc gia thông qua những quy định về luồng dịch chuyển thông tin và công nghệ liên quan đến an ninh quốc gia. Trong nền kinh tế số, việc phải cân bằng giữa an ninh quốc gia và sự năng động kinh tế, chẳng hạn thông qua đổi mới công nghệ sẽ tạo điều kiện để những đổi mới của phương thức phát triển số diễn ra một cách hiệu quả mà vẫn được điều chỉnh và thực thi trong “trật tự”.

Các quốc gia có thể chế chính trị và nền văn hóa khác nhau sẽ có quan điểm khác nhau về những sự cân bằng này trong vai trò của Chính phủ đối với nền kinh tế số, từ đó có các vai trò cụ thể đa dạng khác nhau trong việc thúc đẩy và quản lý nền kinh tế số. Các giải pháp liên quan đến định vị vai trò của Nhà nước trong bối cảnh phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, trong đó vị thế của Nhà nước không chỉ nằm ở kiến trúc thượng tầng của hình thái kinh tế - xã hội mà còn là đứng trong, dẫn dắt quá trình chuyển đối số và phát triển kinh tế số.

3.1. Thiết lập và hoàn thiện chính sách và khung pháp lý

Hoàn thiện và thiết lập thể chế, chính sách và môi trường pháp lý là nhiệm vụ xuyên suốt, cần có mức độ ưu tiên cao nhất và được lồng ghép trong tất các các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế số và xã hội số. Hiện nay, các luật liên quan đến phát triển kinh tế số ở Việt Nam đang tập trung vào việc tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho thương mại điện tử, công nghệ thông tin, bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư của người dùng, quản lý doanh nghiệp công nghệ và thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Thể chế kiến tạo phát triển kinh tế số sẽ đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo đảm trách nhiệm tuân thủ pháp luật như nhau trong môi trường số, góp phần giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong phát triển kinh tế số, bao gồm: (i) phát triển nhanh và bền vững thông qua việc thí điểm, vừa làm vừa hoàn thiện mô hình trước khi triển khai nhân rộng, (ii) phát triển đồng bộ các yếu tố tạo nền móng cho kinh tế số, đồng thời xác định một số ngành, lĩnh vực trọng tâm cần tập trung triển khai, (iii) đảm bảo cân bằng giữa đổi mới sáng tạo với bảo vệ quyền riêng tư, quyền sở hữu trí tuệ, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn phát triển của Việt Nam, (iv) bảo vệ chủ quyền số quốc gia và hội nhập quốc tế, và (v) quản lý rủi ro trong quá trình phát triển kinh tế số an toàn, hoàn thiện các quy định về quyền riêng tư và bảo mật thông tin để tạo môi trường kinh doanh an toàn trong không gian số, giám sát và điều chỉnh các hành vi độc quyền trên thị trường kỹ thuật số để duy trì cạnh tranh công bằng, ngăn chặn hành vi phản cạnh tranh.

3.2. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khuyến khích phát triển và ứng dụng công nghệ

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khuyến khích phát triển và ứng dụng công nghệ luôn là vai trò trọng yếu của Nhà nước trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Trong nền kinh tế số, Nhà nước có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ứng dụng các công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo, blockchain và dữ liệu lớn thông qua các chính sách khuyến khích, cung cấp hỗ trợ tài chính, đồng thời tạo thể chế, quy định cho các công ty khởi nghiệp kỹ thuật số và đổi mới theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số. Trong mối quan hệ giữa “ba nhà” của nền kinh tế số, Nhà nước cần đóng vai trò tích cực thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mô hình kinh doanh số trong khi quy định pháp lý chưa đầy đủ, rõ ràng, song song với việc hoàn thiện hành lang pháp lý, kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, về các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ (Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Luật Viễn thông,...) để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ số, Internet và không gian mạng...

3.3. Phát triển cơ sở hạ tầng

Nhà nước có vai trò quan trọng và thiết yếu trong việc đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế kỹ thuật số, chẳng hạn như mạng băng thông rộng, trung tâm dữ liệu và cơ sở hạ tầng công nghệ khác. Cần phát triển hạ tầng chính phủ số phục vụ cơ quan nhà nước và xã hội trên cơ sở kết hợp thế mạnh của mạng truyền số liệu chuyên dùng, mạng Internet, trung tâm dữ liệu của cơ quan nhà nước để phục vụ kết nối liên thông mang tính mở, xuyên suốt 4 cấp hành chính, tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương, chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng dụng công nghệ điện toán đám mây phục vụ kết nối, quản lý các nguồn lực, dữ liệu của cơ quan nhà nước một cách mở và an toàn, đáp ứng kịp thời, linh hoạt và hiệu quả nhu cầu của doanh nghiệp và người dân.

- Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, doanh nghiệp nhà nước cần sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc áp dụng các công nghệ mới như Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), blockchain và điện toán đám mây vào quản lý và sản xuất để tăng cường hiệu quả và cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp bưu chính cần ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư xây dựng kinh tế số lõi, nâng cấp hạ tầng số, hạ tầng bưu chính rộng khắp. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phát huy vai trò dẫn dắt và “chủ đạo” của mình trong phát triển và triển khai các nền tảng, giải pháp phát triển kinh tế số, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành, lĩnh vực mình hoạt động, tích cực, tiên phong đầu tư phát triển các nền tảng số quốc gia, nền tảng số ngành, huy động, tập hợp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghệ số cùng tham gia phát triển hệ sinh thái sản phẩm và dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế số. Đi tiên phong trong chuyển đổi số, phát triển các nền tảng số quốc gia, nền tảng số ngành, chuyển đổi thành các doanh nghiệp công nghệ số, hình thành hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ số xung quanh mảng kinh doanh lõi phải là trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước. Các chính sách phát triển kinh tế số cần cụ thể như: (i) khuyến khích phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp “lõi” trong kinh tế số, ưu tiên phát triển kinh tế số ICT với trọng tâm là doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ số “Make in Vietnam”; (ii) ưu đãi thuế cho các lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao; và (iii) phát triển kinh tế số nền tảng với trọng tâm là các nền tảng số quốc gia, dùng chung, thống nhất trong từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại điện tử là ngành đang bị cạnh tranh rất lớn từ các sàn thương mại điện tử nước ngoài [1,2,3].

Gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công để có những dự án đầu tư công lớn nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi ngõ ngách của nền kinh tế và đến từng công dân, ưu tiên các dự án kinh tế số mang tính liên ngành, liên tỉnh, phù hợp với quy hoạch phát triển các vùng kinh tế đã được thông qua. Tuy nhiên, để có một nền kinh tế chuyển đổi số mạnh mẽ, cần phải có một nguồn lực rất lớn, không thể chỉ đến từ nguồn ngân sách nhà nước mà phải dựa chính vào nguồn vốn xã hội đến từ khu vực tư nhân và khu vực FDI. Vì vậy, cần tạo các điều kiện căn bản để thu hút được nguồn vốn dành cho đầu tư số hóa nền kinh tế, hạ tầng và dịch vụ số.

3.4. Phát triển nhân lực số

Khi tham gia vào thị trường lao động trong nền kinh tế số, người lao động phải đổi mới để thích nghi với các kỹ năng, kiến thức và các phương thức kinh doanh truyền thống trước đây nay đang dần chuyển sang môi trường số. Nhìn dài hạn, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi, phát triển, từ đó thúc đẩy tư duy sáng tạo, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo với việc thay đổi từ quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo trình dạy và các môn học mới gắn với số hóa. Triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành và đội ngũ quản trị các cấp của doanh nghiệp.

Phát triển kỹ năng là một khía cạnh quan trọng trong vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế số và Nhà nước phải nỗ lực để đảm bảo rằng công dân của mình có các kỹ năng và kiến thức cần thiết để tham gia vào nền kinh tế số và tận dụng các cơ hội của nền kinh tế số. Hiện tại, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam đứng đầu các nước trong khu vực, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử, tuy nhiên xét về nhân lực sẵn sàng cho phát triển kinh tế số, Việt Nam lại đang đứng cuối bảng. Do đó, Nhà nước cần dành nhiều nguồn lực hơn cho phát triển nguồn nhân lực cho kinh tế số.

3.5. Phát triển kinh tế số hướng đến nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập

Nền kinh tế “độc lập, tự chủ" là một nền kinh tế tự quyết định được về cơ bản các chiến lược và kế hoạch sản xuất, thương mại, tài chính và các hoạt động kinh doanh khác của mình, với mục tiêu là tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng và cạnh tranh, tăng cường sự đa dạng trong kinh tế và đẩy mạnh sự phát triển bền vững của quốc gia. Trong kỷ nguyên kinh tế số, sự hợp tác quốc tế giữa các Chính phủ và sự hợp tác xuyên biên giới giữ vị trí quan trọng và có nhiều đặc thù mới so với kỷ nguyên thương mại vật chất. Vì thương mại kỹ thuật số có lợi thế về quy mô, nên khi các Chính phủ hợp tác với nhau, người tiêu dùng có thể hưởng lợi từ các nền tảng có nguồn gốc từ các quốc gia khác mà không cần phải đợi một nền tảng trong nước xuất hiện. Nếu các Chính phủ không hợp tác, kết quả sẽ là các chế độ thương mại với nhiều tắc nghẽn trên khắp thế giới, làm tổn thương các quốc gia không có nền tảng trong nước riêng. Vì nền kinh tế số có chi phí cố định rất cao và chi phí cận biên thấp hơn nhiều, các doanh nghiệp có cơ hội rất lớn khai thác các lợi ích của kinh tế theo quy mô. Để đạt được những lợi ích này, Chính phủ các nước phải thỏa thuận với nhau về quyền riêng tư, bảo mật và sử dụng dữ liệu.

Mặt khác, an ninh mạng là một khía cạnh quan trọng trong vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế số và Nhà nước phải nỗ lực để đảm bảo rằng công dân và doanh nghiệp của mình được bảo vệ khỏi các mối đe dọa mạng. Cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia phải được an toàn và vai trò này khó có thể giao cho khu vực tư nhân đảm trách. Trong thế giới mà không chỉ các máy chủ và thiết bị truyền thông được kết nối với Internet, mà là mọi thứ khác, các vấn đề an ninh là một yếu tố cực kỳ quan trọng cần được giải quyết. Hợp tác với các đối tác quốc tế trong nền kinh tế số là một thành tố rất quan trọng để ứng phó kịp thời và hiệu quả đối với các mối đe dọa mạng có thể bắt nguồn từ mọi nơi trên thế giới, và việc hợp tác này để đảm bảo rằng công dân và doanh nghiệp của mình được bảo vệ khỏi những mối đe dọa này.

Hợp tác quốc tế là giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế số, tạo lực kéo tiến trình chuyển đổi số trong khu vực kinh tế nhà nước và cơ quan nhà nước thông qua việc các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ lớn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, tiên phong áp dụng công nghệ mới, mô hình mới vào Việt Nam. Mặt khác, phát triển kinh tế số và xã hội số gắn liền với xây dựng và củng cố chủ quyền số quốc gia, do vậy cần bảo vệ chủ quyền số quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong khi chủ động hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường cân đối với phát triển sản xuất trong nước, cần thu hút đội ngũ chuyên gia trên thế giới cùng tham gia giải quyết các bài toán của Việt Nam, cần quản lý rủi ro trong quá trình chuyển đổi lên môi trường số, phát triển kinh tế số và xã hội số an toàn.

Bước vào kỷ nguyên kỹ thuật số, những đổi mới mang tính cách mạng trong nền kinh tế kỹ thuật số đã làm thay đổi đáng kể phương thức sản xuất và cách sống, đồng thời cả cách tiếp cận về vai trò của Nhà nước, của khu vực kinh tế nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Sự xuất hiện của kinh tế số đang đưa đến nhiều cơ hội nhưng cũng đồng thời tạo ra cả các thách thức đối với khu vực kinh tế nhà nước so với phương thức phát triển kinh tế truyền thống. Trong bối cảnh này, Chính phủ và khu vực kinh tế nhà nước cần “vươn mình” trong việc chủ động đảm trách một vai trò mới liên quan đến hiệu quả, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng cũng như giám sát sức mạnh thị trường của các nền tảng lớn, khuyến khích đổi mới nhiều hơn, xây dựng một khuôn khổ thể chế và pháp lý hiệu quả cho việc phân phối tài sản dữ liệu, thiết kế một hệ thống thuế và thúc đẩy hiệu quả phát triển kinh tế số trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Trong tổng thể quá trình quản lý phát triển nền kinh tế số, điểm quan trọng xuyên suốt là cách tiếp cận thị trường “cởi mở” trong việc giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước để đạt được điểm cân bằng giữa yêu cầu “tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo liên quan tới việc phát triển và ứng dụng kinh tế số” với yêu cầu “bảo đảm sự phát triển ổn định của thị trường”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52/NQ-TW, ngày 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
  2. Chính phủ (2020), “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 749/QĐ-TTg.
  3. Chính phủ (2021), “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ”, Quyết định số 411/QĐ-TTg.
  4. Nagy Hanna (2018) “A role for the state in the digital age”, Journal of Innovation and Entrepreneurship, volume 7, Article number: 5.
  5. Spence Michael (2021) "Government and economics in the digital economy", Journal of Government and Economics, Elsevier, vol. 3 (C).
  6. Tô Lâm (2024), “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực

    lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.  https://vneconomy.vn/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi.htm

  7. Trần Thọ Đạt, Nhật Hạ - Phương Hoa (2022) “Kinh tế số đang thách thức kinh tế truyền thống”, https://cafef.vn/kinh-te-so-dang-thach-thuc-kinh-te-hoc-truyen-thong 20220207114143634.chn

Đính kèm đường link gốc:  https://dangcongsan.vn/hoidonglyluan/Lists/XayDungDang/View_Detail.aspx?ItemID=473

Theo Dangcongsan.vn

CÁC BÀI VIẾT KHÁC: